Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

ĐỜI THỨ 13

Đời thứ mười ba

Cai cơ Tham Đốc
NGUYỄN CẢNH LƯƠNG
(XIII-B)

Ngài là con trai thứ hai của Yển Đức Hầu Nguyễn Cảnh Quy, tên tục thường gọi là Xươn, con cháu đời thứ 17 thường gọi Ngài là Can Xươn.
Ngài sinh năm Mậu Tý (1769).
Ngài Cảnh Lương có tính tình cương trực thẳng thắn.
Ngay từ lúc còn trẻ, Ngài đã từng theo cha phục vụ trong Bản tộc binh. Ngài đã được bổ nhiệm làm Trung Nghĩa vệ cai cơ, về sau đổi vào công cán tại tỉnh Quảng Nam (thuộc huyện xã nào không có tài liệu ghi chép lại). Tại đây Ngài được thăng là Cai cơ Tham Đốc và có cưới một người vợ lẽ, sinh được một người con trai, sau khi Ngài trở về Nghệ An lập nghiệp thì bà và con trai vẫn ở lại Quảng Nam, đến nay không còn rõ tung tích.
          Lúc đầu Ngài về quê sinh sống ở thôn Cẩm Ngọc, sau chuyển sang quê mẹ ở thôn Nghiêm Thăng (Nay là xã Đông Sơn và xã Liên Sơn, huyện Đô Lương). Trước năm Ngài 40 tuổi, nhà vẫn còn nghèo. Càng về sau do cần cù lao động và biết cách làm ăn nên trở thành giàu có, khi mất đi để lại cho con cháu một cơ nghiệp tương đối khá giả.
          Ngài qua đời ngày 13 tháng 6 năm Đinh Mùi (1847).
Mộ Ngài lúc mới mất táng ở xã Đông Sơn, Đô lương, Nghệ an ngày nay. Sau đó con cháu ngài đã tiến hành cải táng nhưng khi đào lên thi hài vẫn còn y nguyên như mới, cốt khô, màu trắng hồng, bốc lên mùi hương thơm dễ chịu, vì vậy ai ai cũng cho là mộ kết nên táng lại chỗ cũ không giám dời đi nữa. Về sau  có lẽ nhờ vậy nên con cháu làm ăn đều phát đạt.
          Chính thất của Ngài họ Thái, tên Nưu, bà không có con.
Ngài Thái Thị Nưu mất ngày 30 tháng 7 âm lịch (không rõ năm). Mộ táng  tại Cửa Vệ, thôn Nghiêm Thắng, xã Đông sơn, huyện Đô Lương.
Kế thất thứ nhất của Ngài lại chính là em ruột của bà chính thất. Họ Thái, tên Nghiêm.
Ngài Thái Thị Nghiêm sinh năm Tân Hợi (1791).
Bà mất ngày 1 tháng 5 năm Tân Sửu (1841). Mộ táng trong vườn nhà, sau đó cải táng về Cửa Vệ, thôn Nghiêm Thắng. xã Đông sơn, huyện Đô Lương.
Kế thất thứ hai của Ngài Cảnh Lương không rõ tên tuổi, chỉ biết bà đã sinh hạ cho Ngài một trai và một gái.
          Ngài Cảnh Lương sinh hạ được tất cả là 13 người con, gồm 5 trai và 8 gái (trong đó bà kế thất là Ngài Thái Thị Nghiêm 4 trai, 7 gái và bà vợ thứ ba sinh 1 trai và 1 gái).
          Các con của ngài đó là:
          Con trai trưởng tên là Nguyễn Cảnh Thanh mất sớm.
          Con trai thứ hai tên là Nguyễn Cảnh Dung cũng mất sớm.
          Con trai thứ ba tên là Nguyễn Cảnh Đạt, có tên thường gọi là Tổng. Con cháu đời thứ 18 thường gọi Ngài là Can Tổng. Người dân trong vùng còn thường gọi Ngài là cụ Huấn.
          Con trai thứ tư tên là Nguyễn Cảnh Trí, tự Lịch. Con cháu đời thứ 18 gọi Ngài là Can Trùm.
          Con trai thứ năm tên là Nguyễn Cảnh Thiệu. Ngài Cảnh Thiệu là con vợ lẽ thứ ba của Ngài Nguyễn Cảnh Lương.
          Tám người con gái của ngài lần lượt là:
Con gái thứ nhất tên là: Nguyễn Thi Ngọc Vũ
Con gái thứ hai tên là: Nguyễn Thị Ngọc Ý
Con gái thứ ba tên là: Nguyễn Thị Ngọc Lê
Con gái thứ tư tên là: Nguyễn Thị Ngọc Bình
Con gái thứ năm tên là: Nguyễn Thị Ngọc Vi
Con gái thứ sáu tên là: Nguyễn Thị Ngọc Hiền
Con gái thứ bảy tên là: Nguyễn Thị Ngọc Diễm
Con gái thứ tám tên là: Nguyễn Thị Ngọc Dạng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét