Thứ Năm, 15 tháng 9, 2016

KÍNH CÁO

Kinh Thưa toàn thể con cháu
trong Tiểu chi Nguyễn Cảnh Thứ!
Ban trị sự xin cập nhật tình hình quỹ vốn của Tiểu Chi như sau:
Tính đến ngày 25/08/2018), tiền quỹ của tiểu chi là 93
Triệu 800 000 đồng. (Chín mươi ba triệu, tám trăm ngàn đồng). 
Cụ thể số tiền này do các con cháu sau đây đóng góp:
         
+ Nguyễn Thị Viên (Cháu ngài Cảnh Thứ) và con cháu 10 500 000 đ
          + Nguyễn Cảnh Ngọc (Cháu Ngài Cảnh Thứ) 2 000 000 đ
          + Nguyễn Cảnh Vinh (Cháu Ngài Cảnh Thứ)  3 000 000 đ
+ Nguyễn Cảnh Quang (Cháu Ngài Cảnh Thứ) 40 000 000 đ
          + Nguyễn Thị Ngọc Hân (Chắt Ngài Cảnh Thứ) 5 000 000 đ
          + Nguyễn Thị Ngọc Mai (Chắt Ngài Cảnh Thứ) 5 000 000 đ
          + Vũ Thị Huyền (Cháu dâu Ngài Cảnh Thứ) 15 000 000 đ
          + Nguyễn Cảnh Tùng (Chắt Ngài Cảnh Thứ) 10 000 000 đ
          + Nguyễn Cảnh Toàn (Chắt Ngài Cảnh Thứ) 2 000 000 đ
         + Nguyễn Cảnh Minh Khang (Chít Ngài Cảnh Thứ) 2 000 000 đ
      (Do đã trích đóng góp lên chi trên trong dịp Thập niên sự lễ 700 000 đ)
Ghi chú: Tiền quỹ Tiểu Chi hiện đang lưu giữ tại tài khoản 51110000165240,  Ngân hàng đầu tư-phát triển (BIDV) chi nhánh tại Nghệ An của ủy viên tài chính Nguyễn Cảnh Bằng, điện thoại liên lạc 01665746519
                                          Thay mặt Ban trị sự. Nam Sơn 20/01/2017
                                                 Thủ quỹ:  
Nguyễn Cảnh Bằng

BLOG NÀY DÀNH ĐĂNG CÁC BÀI VIẾT VỀ TUỔI THƠ NƠI QUÊ NHÀ. NẾU CẦN NGHIÊN CỨU VỀ GIA PHẢ TRỰC HỆ CỦA TIỂU CHI, XIN HÃY CHỌN CÁC BÀI VIẾT THUỘC THÁNG 7/2012 TRONG MỤC LƯU TRỮ BLOG BÊN PHẢI MÀN HÌNH. RẤT CÁM ƠN.

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016

TẢN MẠN TUỔI LỤC TUẦN

     Mình sinh ra ở một làng quê nghèo khó, bố mẹ làm nông nhà lại đông con. Từ nhỏ đã chứng kiến bố mẹ vất vả làm lụng, để kiếm đủ cơm khoai cho mười cái miệng ăn. Vật vã mưu sinh giữa một vùng quê được mệnh danh là đất cằn đá sỏi, để cho cả tám anh em, đứa nào cũng được ăn học tốt nghiệp phổ thông, rồi thành thầy thành cô, thành kỹ sư tiến sỹ. Nhiêu đó thôi đã thấy kính nể và hãnh diện vô cùng.
     Lớn lên có gia đình, cuộc sống trong quân ngũ những năm 80 cũng vô cùng  khốn khó. Vợ là kỹ sư thứ thiệt đấy, nhưng khốn nỗi ra trường lại rơi vào một nơi mà giám đốc tham ô đi tù, công ty làm ăn bi bét rồi giải thể, vậy là khó khăn chồng chất khó khăn. Hồi đó còn ở chung với ông bà và gia đình anh chị bên ngoại, mỗi bận sinh nhật con, hai vợ chồng lẳng lặng đưa con ra bờ biển, mua cho con cái bánh cầm tay, chụp cho con tấm hình làm kỷ niệm, làm gì có tiền mà đãi tiệc rùm beng. Cũng có khi gần đến ngày sinh nhật của vợ chồng thì bỗng nhiên chợt nhớ, nhưng rồi công việc mưu sinh cứ nhớ nhớ, quên quên, đến khi nhớ lại thì ngày đó đã qua đi đến tự bao giờ. Cứ như vậy lâu dần thành quen, bởi vậy khái niệm ngày sinh nhật với mình chẳng là cái chi chi.
     Đến lúc nghỉ hưu, ngày nào cũng là ngày “chủ nhật”, sáng ngủ dậy hai vợ chồng ra biển bơi một vòng, về ăn sáng, rồi trồng rau, trồng hoa, nuôi chim nuôi chó, online chém gió với mọi người. Chiều mỗi người chở theo một chú cún yêu, đạp xe vào tận Vũng Tiên. Bụng bảo dạ nhiều người ốm đau bệnh tật, hoặc vất vả mưu sinh, muốn được như mình có khi chẳng được, nghĩ vậy thấy đời mình đã "Tiên" lắm rồi. Hôm qua bỗng nhận được tin nhắn của con trai từ xứ Kim Chi, chúc mừng Ba nhân ngày sinh nhật, mà thấy mừng vì con đã không quên. Vào Face book thấy sáu bảy chục bạn bè, đồng đội, học trò, con cháu chúc mừng “Thêm một mùa khoai sọ”, mới chợt nhớ mình đã tuổi Lục tuần. Cái tuổi mà nghe nói nếu ở quê sẽ được chính quyền tặng cho một cái khung hình, chắc là để giành đặt tấm ảnh “Ngồi sau nải chuối, ngắm gà khỏa thân”.
     Cảm ơn bố mẹ đã có công sinh thành, cám ơn đồng đội đã ngã xuống cho mình được sống, cám ơn mọi người đã quan tâm chia sẻ. Ở cái tuổi này, khi mà tiền tài địa vị, danh vọng...với mình đã như là vô nghĩa, thì quả thực đây lại là một món quà vô giá. Chỉ cầu mong ông Trời cho nhiều sức khỏe, chiều đạp xe qua quán xá ngửi mùi đồ ăn, thấy mình đói bụng. Tối tắt đèn lên giường thấy mắt líu ríu buồn ngủ, trong gia đình mọi thứ cứ bình yên là mãn nguyện lắm rồi. Chẳng còn muốn nghe các cụm từ nhàm chán như “Quyết tâm” “Quyết liệt”, mà nghe đâu công cuộc này “Hết thế kỷ cũng chưa chắc đã xong”. Vậy thì hết đời mình, rồi cả đời con còn chờ mong chi nữa.
     Có điều chưa có cháu, nên đành chơi với...Cún. Vừa mua vui mà chẳng sợ “thắng thua”. Vậy thôi. Nhỉ? Ha ha…

 Tuổi Lục tuần

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

MÓN QUÀ QUÊ



Quả trám đen (quê mình gọi là quả Mui) 
         

      Lọ Nhút, trong câu "Nhút Thanh Chương
Tương Nam đàn"
     Mới sáng nghe tiếng gọi cửa, nhìn ra thấy chú Hạnh người cùng làng, lễ mễ xách túi tư trang cùng bị quà nặng trĩu. Vào tới nhà chú mở túi lôi ra bao thứ quà quê, có cả trám đen và còn hẳn một lọ Nhút to đùng. Tự nhiên thấy áy náy vì mấy hôm trước nói với cháu Điệp rằng, khi nào vào mang cho chú lọ Nhút. Tưởng đùa cho vui ai dè chú ấy làm thật, đúng là “Của một đồng công một nén”.
            Chả giấu gì, quê mình xưa kia thuộc diện nghèo có tiếng, nhà nào cũng vậy, lo cho con ăn đủ no, áo đủ ấm đã mướt mồ hôi, nói chi cao lương mỹ vị. Cả năm may ra được mấy ngày tết tháng rằm là có thịt có cá, nói tháng rằm bởi “Cả năm được rằm tháng bảy. Cả thảy được rằm tháng giêng”, còn thì như bố mẹ mình hay nói, rằng: “Trăm năm trong cũi đưa ra” ấy là Cà Nhút, một món ăn “chủ lực” xuyên dài năm tháng.
            Nói đến Nhút có lẽ hơi lạ với nhiều người không phải dân miền trung, vì vậy mình xin có vài dòng lý giải, để lỡ một mai có ai đến quê mình đỡ cảm thấy bỡ ngỡ. Thuật ngữ “Nhút” có lẽ xuất phát từ cách nói của người dân quê tôi, đó là câu: “Lộn nhào lộn nhút”. Đồng nghĩa với nguyên liệu dùng để chế biến ra món ăn này bao gồm nhiều thứ khác nhau, từ quả cà các loại, măng tre măng nứa, rồi hoa chuối đến mít non băm nhỏ, thậm chí cả xơ mít… Cách làm cũng chẳng cầu kỳ gì cho cam, một chiếc vại sành có nắp, các nguyên liệu được ém chặt trong nước muối bởi cái vỉ tre, trên cùng có dằn hòn đá, như kiểu muối dưa cà. Có điều khác là có thêm gia vị, như riềng giã nhỏ, thính gạo và không thể thiếu món ớt quả. Nói đến đây, nhớ hồi đó vại Nhút nhà mình đặt cạnh cây ớt xiêm, gốc to bằng cây sào chống rèm, quả chín đỏ rực. Nhà quê bấy giờ không khí cũng trong lành không bụi bặm, ớt chín cứ thế hái bỏ cồi ném thằng vào vại nhút, làm nước nhốm màu đỏ au. Mỗi bận vục tay vào, nước đến đâu, da tay đỏ nhừ đến đó, giờ nghĩ lại vẫn còn khiếp. Hi hi…
            Nếu nói Nhút là món “Quốc hồn quốc túy” của dân xứ Nghệ chắc cũng chẳng ngoa, bởi hầu như nhà nào cũng có, ngày nào cũng dùng đến. Vại Nhút cứ ăn nửa trên, lại bổ sung nguyên liệu và gia vị vào nửa dưới. Lâu ngày nước đặc sánh, lên men chua chua cay cay, kết hợp với hương thơm của các loại gia vị cũng dậy mùi đáo để. Nước nhút lâu năm đặc sánh thính gạo, được phi hành mỡ, đun lên làm món nước chấm rau luộc, hay kho với cá đồng cũng cho một hương vị thơm ngon đặc trưng, có phần khác lạ. Mình tin rằng cái hương vị ấy sẽ còn mãi trong hành trang cuộc đời của bao người con xứ Nghệ, cho dù họ có đi đến chân trời góc bể hay may mắn lên cao trên con đường quan lộ.
            Ngày nay cuộc sống có khá giả hơn trước, văn hóa ẩm thực quê mình đã được nhắc đến nhiều hơn. Nhiều người nhạy bén đã thương mại hóa món Nhút, bằng cách sử dụng nguồn nguyên liệu đắt tiền hơn, quy trình chế biến khắt khe hơn. Thành phẩm được đóng gói trong những lọ có nhãn mác bắt mắt, có địa chỉ và số phone đàng hoàng. Nghe nói đã có người thành công nhờ kinh doanh nghề làm Nhút tại các khu công nghiệp Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng tàu… Có thể là ở đó có rất nhiều công nhân có thu nhập khiêm tốn, nhưng không thể phủ nhận cái hương vị mặn ngọt chua cay, đậm đà của món Nhút. Tựa như cốt cách giản dị, chân chất mà không kém phần mặn mòi, của người dân xứ Nghệ quê tôi.   

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

XE ĐẠP ƠI

Vượt lên cả thời gian, chiếc xe vẫn thi gan cùng tuế nguyệt
     Xin mượn tựa đề bài hát “Xe đạp ơi” để trải lòng mình về một thời xa vắng. Chả là hôm qua, cháu Thủy Tiên con bác Ngọc ở Hà nội về thăm quê, chụp được tấm hình chiếc xe đạp vất chỏng chơ, nằm thi gan cùng tuế nguyệt sau hồi nhà bác Bằng. Mình đăng lên facebook và nhận được nhiều chia sẻ của bạn bè, bởi với thế hệ của bọn mình thì ai cũng hiểu rằng, đây là biểu tượng một thời ở Miền Bắc. Vậy là người thì ví nó như SH, người thì nâng lên ngang tầm Camry bây giờ… Ý kiến chung là đề nghị nên phục hồi, bảo tồn làm kỷ niệm.
     Là một người hoài niệm, nhìn bức ảnh như chạm vào nỗi nhớ, từ sâu thẳm trong ký ức tuổi thơ, bao kỷ niệm bỗng chốc ùa về. Mình nhớ như in chiếc xe này bố mình mua từ những năm 60 của thế kỷ trước, đó là chiếc xe đạp mang thương hiệu Favorit do Tiệp Khắc sản xuất. Nếu mình nhớ không nhầm thì đó là chiếc thứ hai trong làng, sau xe ông Chắt Đạm. Nó được mua với giá một ngàn năm mươi đồng, tiền Việt Nam-Dân chủ-Cộng hòa. Khi mà tiền Xu, tiền Hào còn có giá trị, thì nhiêu đó quả là một đống tài sản của người lao động. Đủ biết bố mẹ mình đã chắt chiu tằnn tiện thế nào để có được ngần ấy, trong điều kiện nuôi tám anh em mình, giữa một miền quê được mệnh danh là “Chó ăn đá gà ăn sỏi”, mà không thất học một ai.
     Ngày đó ở Miền Bắc chỉ có vài loại xe đạp, phổ thông nhất là xe Thống Nhất của Việt Nam, chất lượng rất kém. Tiếp đến là xe Phượng Hoàng của Trung Quốc, loại này khá chắc chắn bởi làm toàn bằng sắt, kể cả chắn bùn mà người Bắc vẫn gọi theo tiếng Pháp là Gác-đờ-bu, chắn xích là Gác-đờ-sen…Khi đi lại nếu phải vác qua đò hoặc qua những đoạn đường có hố bom thì cực kỳ vất vả. Đến lúc bong sơn thì rỉ rét đen kịt trông rất xấu, nên được mệnh danh là “xe trâu”. Bởi thế mà Favorit được xếp vào tốp đầu vì vừa tốt, vừa nhẹ lại vừa đẹp. Chả vậy mà nó được coi là tiêu chuẩn lựa chồng của phái đẹp, rằng: “Có Favorit có đài (radio) mang hông” thì dù có già đến mấy các em vẫn: “Phen này cháu quyết lấy ông”. Nhắc đến đây lại chợt nhớ cái thời chiến tranh bao cấp, mà ai ai cũng nghèo, cái gì cũng thiếu, bởi vậy mới có bài hát chế: “Tình tang tình em đi rình Trung úy. Tuy nó có già nhưng mà lắm tiền. Đài mang bên hông đồng hồ treo tay”. Hay: “Một yêu anh có Pơ-zô (xe đạp), hai yêu anh có cá khô ăn dần”. Thế đấy, người có cái Radio và đồng hồ Pôn-jôt của Liên Xô, là đã được xếp vào hạng lắm tiền cơ đấy.
     Hồi đó theo quy định bắt buộc, xe đạp cũng như Radio đều phải có đăng ký (Cà-vẹt), mỗi xe được đeo một biển số như xe máy bây giờ. Chẳng riêng gì bố mình, người nào có xe đạp cũng vậy, trước đầu xe thường được trang trí một cái gì đó, có khi là túm lông gà, có khi là một lá cờ đuôi nheo, đi trên đường trông cũng vui mắt đáo để, hi hi… Mỗi bận đi đâu về là lau chùi sạch sẽ, dầu mỡ đủ đầy, trong nhà có sẵn hai cái dây buộc từ xà nhà, đầu dưới có hai cái móc sắt quấn giẻ chống xước, ông treo chiếc xe tòng teng để lốp xe cách ly khỏi mặt đất khoảng một gang tay. Dân trong làng ai nhìn thấy chiếc xe cũng trầm trồ, đưa tay bóp nhả cặp thắng nhẹ hều, búng búng vào sườn xe để được nghe âm thanh boong boong trong vắt, miệng trầm trồ thán phục: “Favorits đạp ít đi nhiều”.
     Không biết có phải vì tuổi tác, tự nhiên nhìn lại chiếc xe, cứ thấy có cái gì đó vừa gần gũi thân thương, lại vừa xa vời vợi. Thoáng một chút cảm giác xót xa, thương mẹ thương cha, thương mình. Thương một thời bao cấp khốn khó mà vui, mà tràn đầy hạnh phúc, trong gia đình đông vui giữa một chốn làng quê.
 Một cửa hàng Bách hóa thời bao cấp
 Mời mọi người click vào đây để nghe lời bài hát nhé.