Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

ĐỜI THỨ 10

Đời thứ mười

Hội Triều Hầu
NGUYỄN CẢNH LĨNH
(IX-A)

          Hội Triều Hầu Nguyễn Cảnh Lĩnh là con trai trưởng của Âu Dương Hầu Nguyễn Cảnh Quyền.
Ngài sinh năm Canh Tuất (1670). Mẹ tên là Liễu.
          Ngài rất hiếu học, thi đỗ cử nhân. Vừa có học thức vừa là vị tướng có mưu lược, đồng thời cũng là nhà ngoại giao với năng lực toàn tài.
          Năm ngài 24 tuổi, đã theo cha làm quan Quản nhụê trung đội. Lớn lên học hành đỗ đạt, được triều đình bổ nhiệm làm quan. Trong thời gian làm quan, Ngài đã từng làm sứ quân của Nhà Lê sang ngoại giao với Vua nước Ai Lao (Lào) láng giềng. Với học vấn trình độ Cử nhân, cộng với tài năng ngoại giao của mình, Ngài đã có nghệ thuật trong bang giao, góp phần giữ cho quan hệ hai nước hòa hảo, trong hoàn cảnh chiến tranh giữa hai bên đang đe doạ nổ ra.
Với nhũng công tích kể trên, Ngài được vua Lê phong tặng là Mậu Lâm Lang Hoàng Điện Thiếu khanh Hội Triều Hầu.
Năm 1742 Ngài thôi việc quan về nghỉ hưu tại quê nhà.
Ngài mất ngày 28 tháng 11 năm Nhâm Thân (1752), thọ 85 tuổi.
Mộ táng tại Hương Côn, làng Tràng Thịnh (xã Tràng Sơn Đô lương ngày nay) và sau này con cháu cải táng đưa về chôn ở đồi Cây Ngát, xã Đông Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An ngày nay.
          Sau khi tạ thế, Ngài còn được Nhà Lê truy phong là Gia hành Đại phu, Lương sơn, Hưng hoá đằng xứ tán trị Thừa Chánh sứ ty, Thừa Chánh sứ Hội Triều Hầu.
          Chính thất của Ngài là bà Nguyễn Thị Liễu, người làng Phương Liên (nay xã Liên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An), Bà mất ngày 9 tháng 2 năm Quý Dậu (1753), hưởng thọ 85 tuổi, mộ táng tại Rú Mồ, phía chân núi, thuộc xã Tràng Sơn, Đô Lương, Nghệ An ngày nay.
          Ngài sinh được 09 người con trai và 9 người con gái đó là:
Con trai trưởng tên là Nguyễn Cảnh Việt, tự Bân, tức là Thuận Trung Hầu.
Con trai thứ hai tên là Nguyễn Cảnh Đính, tự Thu, tức là Ích quang Điện Thiếu khanh Hiểu phù bá. Con cháu ngày nay đang sinh sống ở xã Cao Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
Con trai thứ ba tên là Nguyễn Cảnh Sáng, tự Trinh, tức là Cẩm sư Lang ích quang điện tử Thừa Cẩm lộc Tử.
Con trai thứ tư tên là Nguyễn Cảnh Thuần, tự Kính, tức là Bản tổng trưởng, con cháu sống tập trung ở các xã Liên Sơn, Lưu Sơn và Bồi Sơn, huyện Đô lương, tỉnh Nghệ An.
          Con trai thứ năm tên là Nguyễn Cảnh Kỳ, tự Bá, tức là Mậu Lâm Lang ích quan Điện Thiếu khanh lai triều tử. Con cháuáống chủ yếu ở xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Con trai thứ sáu tên là Nguyễn Cảnh Oanh.
Con trai thứ bảy tên là Nguyễn Cảnh Hành.
Con trai thứ tám tên là Nguyễn Cảnh Kiểm.
Con trai thứ chín tên là Nguyễn Cảnh Viễn.
Chín người con gái lần lượt là:
Người con gái thứ nhất tên là: Nguyễn Thị Ngọc Khôi
Người con gái thứ hai tên là: Nguyễn Thị Ngọc Châu
Người con gái thứ ba tên là: Nguyễn Thị Ngọc Khai
Người con gái thứ tư tên là: Nguyễn Thị Ngọc Khâm
Người con gái thứ năn tên là: Nguyễn Thị Ngọc Linh
Người con gái thứ sáu tên là: Nguyễn Thị Ngọc Huấn
Người con gái thứ bảy tên là: Nguyễn Thị Ngọc Thanh
Người con gái thứ tám tên là: Nguyễn Thị Ngọc kiều
Người con gái thứ chín tên là: Nguyễn Thị Ngọc Đệ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét