Năm ngoái có người
biếu mấy củ từ củ vạc, sẵn có khu đất dự án treo ở trước nhà, mình để dành hai củ nhỏ
trồng xuống cho vui. Sau một năm chăm sóc, hôm qua hồi hộp dỡ lên, cô bạn đồng
hương tên Long tới chứng kiến “sự kiện”, trong lúc chờ đợi ngân nga mấy câu đồng
dao mà hồi nhỏ ở quê đứa nào cũng thuộc: “Từ từ vạc vạc/Bỏ trác gánh về/Bắc nồi
lên nấu/Củ mô xấu xấu thì để cho chồng/Củ mô lông lông để dành đứa ở/Củ mô nứt
nở thì mẹ con ta”. He he …Theo nguyên tắc phân phối này thì xem chừng “chồng”
và “đứa ở” không ai có cơ hội được ăn khoai đâu nha, vì củ nào củ nấy đều hứa hẹn
sẽ là “nứt nở” cả. Mình sẽ biếu mỗi người vài củ để ăn lấy lộc, chú Quang ở
Vũng Tàu cũng sẽ có phần, coi như quà quý. Nói là nói vậy với thế hệ bọn mình
thôi, chứ bọn trẻ ở phố thời buổi này ba củ khoai, củ sắn chúng đâu quý như
mình hồi nhỏ, như cu Toàn nhà mình cũng rứa đó thôi.
Ngày đó lũ trẻ chăn trâu nhà quê
chúng tôi chẳng mấy đứa được ăn no mặc ấm, mỗi bận trời trở rét có bao nhiêu áo
rách áo vá cứ mặc hết vào trong, tuy hơi vướng víu một chút nhưng nhờ nhiều lớp
nên cũng đỡ rét. Đứa nào nhà khá thì có cái áo sợi, áo “trấn thủ lưu đồn” (áo
rét của bộ đội Điện biên), may lắm thì có cái quần dài, còn thì chủ yếu là quần
đùi chân đất. Đi chăn trâu tốt nhất là ngồi trên lưng trâu, tuy có hôi hôi một
chút nhưng ấm cực đó nha. Từ nhà ra đi, đứa nào cũng thủ sẵn một cái bùi nhùi bện
rơm, vừa thêm ấm vừa làm mồi giữ lửa. Đến bãi chăn trâu thì phân nhau đi tìm củi
về nhóm bếp sưởi ấm. Những ngày hanh khô còn đỡ, bữa có mưa phùn thì khói lên
mù mịt, người ngợm đứa nào đứa ấy cứ khét lẹt như cá ngừ xông khói.
Lửa nổi lên rồi, lại nghĩ chuyện
kiếm cái gì nướng ăn cho ấm bụng. Thông thường vẫn là mấy con cua đồng, may mắn
hơn thì vớ được mấy chú cá rô, cá tràu cóc. Theo kinh nghiệm, qua làn nước
trong, cứ nhìn thấy dấu chân nào có nước bị đục thì đích thị trong đó có một
chú, việc bắt cũng chẳng khó khăn gì, vì lũ cá lạnh cóng nên hầu như nằm yên
không chạy. Món cua nướng ăn kèm với đọt cây Mua hái ở trên đồi, với bọn mình hồi
bấy giờ sao mà thơm ngon, mà bùi đến thế. Loại thực phẩm thứ hai là các loại củ
khoai hoặc sắn, chúng có được nhờ việc “tập kích” vào các rẫy của người dân hoặc
ruộng Hợp tác xã. Có lần bác Ngọc (anh trai mình) còn có “sáng kiến”, sau khi
“tác nghiệp” xong chụm hai tay đập mạnh xuống đất, giả dấu chân bò để hòng trốn
tránh sự truy cứu của chủ rẫy. Hi hi… ngây ngô đến thế là cùng, có mà Bò nó mới
mắc lừa trò đó, vậy mà đứa nào đứa đó đắc chí ra phết.
Có được “chiến lợi phẩm” rồi thì
tranh nhau nướng trên ngọn lửa, đứa nào cũng muốn của mình chín mau hơn, đẩy
qua đẩy lại có khi làm bếp tắt ngóm. Nhóm lại được thì chớ, nếu không thì chén
luôn, chỗ nào chưa chín cho vào bụng chín nốt. Ăn xong mồm miệng mặt mũi đứa
nào cũng tèm lem như hề, kéo nhau đi uống nước ở các giếng tự tạo. Mỗi xứ chăn
trâu có một cái giếng, cái nào cũng chỉ to bằng cái thúng, chỉ có giếng Chọ Hao
là lớn bằng cái nong, lại được ghép đá thành bậc lên xuống hẳn hoi. Có điều cái
nào cũng có mạch nước ngầm, quanh năm chảy ra trong vắt, ngọt lịm, lành như nước
suối Vĩnh Hảo. Ăn vậy, uống vậy mà chả thấy đau bụng đâu biếc gì cả, đứa nào đứa
đó khỏe như trâu, hay là nhờ “đa dạng thực phẩm”, như các chuyên gia dinh dưỡng
ngày nay vẫn khuyến cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng không biết?
Hôm nay rỗi rãi online, vào
Google gõ cụm từ khóa “Nam sơn Đô lương Nghệ An”, ảnh từ vệ tinh nhìn xuống hiện
lên, vẫn còn đó những Hòn Lách, Bàu Buồng, Đồng Chay, Đồng Lự…. Đâu rồi vệ ông
Cừu, ông Điệm, ông Tần… Đâu rồi giếng Chọ Hao, Hòn Ràn, Eo Lái… Cảnh xưa còn
đó, người cũ còn không? Ngoảnh đi ngoảnh lại đã năm sáu chục năm trời. Tuổi thơ
đã đi qua thật xa, chỉ có mùi thơm béo ngậy của món cua đồng cá lóc nướng trui,
mùi khen khét mà thơm cay của khói rơm khói rạ, mùi hoi hoi mà nồng nàn ấm áp của
tấm lưng trâu thì hình như vẫn ở đâu đây và theo tôi đi suốt cuộc đời, như bài
đồng giao Từ từ vạc vạc…. Đông về gió lạnh, một chút lan man tôi nhớ về tuổi thơ
êm đềm, của một thời khốn khó mà vui.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét