Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2013

GIẢI MÃ CHO THÀNH NGỮ "NỢ NHƯ CHÚA CHỔM"

Cổng vào Đền Đức Hoàng tại Yên Sơn Đô Lương.

     Cách đây đã trên 400 năm, cứ mười năm một lần vào những năm có số cuối cùng là số 4, như 1944…2014, vào ngày Rằm tháng Ba âm lịch, lễ hội của dòng họ Nguyễn Cảnh lại được tổ chức tại nhà thờ Đại tôn thuộc huyện Đô lương tỉnh Nghệ An. Trong ba ngày lễ đó có rất nhiều hoạt động, trong đó có việc tế rước từ nhà thờ Thái phó Tấn quốc công Nguyễn Cảnh Hoan xuống đền Đức Hoàng thuộc xã Yên Sơn, huyện Đô Lương. Việc làm này ngoài ý nghĩa tạ ơn Thành hoàng còn có ý nghĩa tạ ơn người mà các vị tiền bối họ Nguyễn Cảnh đã phụng sự phò tá trong suốt quá trình phục hưng vương triều Lê Trung Hưng-Vua Lê Trang Tông. Người được gắn liền với truyền thuyết “Chúa Chổm”. Vậy Chúa Chổm, liên quan tới Đền Đức Hoàng như thế nào?
     Chuyện kể rằng: Năm Thống Nguyên (1522), Mạc Đăng Dung người làng Cổ Tế, tỉnh Hải Dương nổi lên chiếm ngôi vua Lê, đổi niên hiệu là Minh Đức, đem giam vua Lê Chiêu Tông ở phường Đông Hà, nhà vua may mắn giấu được ấn “Ngọc tỷ truyền quốc”. Có cô bán rượu xinh đẹp, ăn nói có duyên vốn người làng Lủ (Kim Lũ) gần bên sông Tô Lịch, là con gái Bùi Khả Trung người Châu Hoan (Nghệ An, Hà Tĩnh), nguyên là một viên quan nhỏ của nhà Lê nay làm quản ngục cho nhà Mạc. Hàng ngày cô thường mang rượu, bánh đến bán cho lính canh ngục, thấy vua mặt mũi khôi ngô bị giam cầm nên rất thương tình và đem lòng yêu mến. Một hôm cô chuốc rượu cho lính canh, nhân dịp lẻn vào hầu vua. Khi được tin cô đã có thai, vua Lê Chiêu Tông lén giao cho cô chiếc ấn ngọc làm dấu tích và dặn trốn đi, sau này đẻ con trai sẽ có ngày phục thù. Sau đó nhà vua bị họ Mạc giết chết, cô gái làng Lủ lánh đi nơi khác, sinh ra một con trai đặt tên là Chổm (tên húy là Lê Ninh).
Nhà nghèo, Chổm phải đi làm thuê và kiếm củi nuôi mẹ, những lần vào thành bán củi thường la cà vào ăn ở các quán cơm nơi cửa ô. Chổm ăn hàng nào là hàng ấy hôm đó bán đắt như tôm tươi. Vậy nên các hàng thi nhau chèo kéo mời Chổm ăn, uống rượu và sẵn sàng cho chịu. Ðược thể, Chổm đánh chén hoang tàn tiêu pha bạt mạng, nợ nần đầm đìa khắp nơi. Ai đòi, Chổm cũng bảo: Chờ lúc tôi làm nên sẽ trả.
Thời kỳ này có tướng Nguyễn Kim quê ở xã Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) cựu thần triều Lê đứng lên chiêu quân diệt Mạc, muốn tìm một người dòng chính nhà Lê để bố cáo cùng thiên hạ, tạo danh chính ngôn thuận “phò Lê diệt Mạc” nên đã cải dạng ra Bắc thăm dò. Một đêm, có vị thần báo mộng “Ðón ở sông Tô, thấy ai "cờ son, nón sắt" đấy chính là nhà vua đấy!”.
Hôm sau, Nguyễn Kim chờ mãi, đến trưa mới thấy một bè củi lờ đờ trôi đến. Trời mưa, anh chàng đen đủi trên bè đội chảo gang nấu kẹo thay nón, tay cầm cây sào có quấn cái khố đỏ. Ông đoán ra "cờ son, nón sắt" chắc là đây, bèn gọi vào gặng hỏi gia thế và bảo đưa về gặp mẹ.
Mẹ Chổm khi biết rõ đây là người có thiện chí phù Lê, liền đưa ngọc tỉ ra và kể đầu đuôi câu chuyện. Hai mẹ con Chổm được bí mật đưa về Sầm Châu, Ai Lao (Sầm Nưa-Lào hiện nay) Chổm được tôn lên làm vua-vị vua đầu tiên của nhà Lê Trung Hưng. Hào kiệt vùng miền Thanh, Nghệ nghe tin theo về rất đông, Thái sư Nguyễn Kim đều thu nạp cả. Trong số đó vào năm Bính Thân (1536), có Ngài Nguyễn Cảnh Huy cùng con trai quê ở Hoan Châu (Nghệ An) chiêu mộ hùng binh dẫn quân sang yết kiến, được vua phong cho tước Bình Dương Hầu và con trai Nguyễn Cảnh Hoan tước Dương Đường Hầu, cả hai cha con đều được giao nắm giữ binh quyền trong triều. Đến năm Đinh Mùi (1547) cùng triều thần rước vua Lê về về Ái Châu (Thanh Hoá) xây dựng cung điện Vạn Lại (xã Vạn Lại, huyện Thọ Xuân Thanh hoá ngày nay), mở ra một thời kỳ chiến đấu “Phò Lê diệt Mạc”.
Sau khi nhà Mạc bị tiêu diệt, triều đình nhà Lê trở lại Thăng Long, khi kiệu vua đến đầu cửa ô, tiếng đồn vang khắp nơi, bàn dân rủ nhau nghênh đón. Các chủ hàng cơm rượu ùn ùn kéo đến đòi nợ cũ. Vua sai quan lính lấy tiền trả họ, thấy thế nợ một họ đôn lên gấp mười và khối kẻ cũng mạo nhận là chủ nợ đến đòi khống. Quan hầu cận đếm tiền mãi, trả mỏi tay chưa hết nợ, mà người đòi vẫn kéo đến, bèn tung tiền cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy. Ðến gần cửa Ðại Hưng, đám chủ nợ ngày càng đông, chẳng còn ra thể thống gì, một viên tướng thấy vậy bèn hạ lệnh “Cấm Chỉ” không ai được đòi nữa. Chỗ ấy gần một ngã tư, sau thành tên ngã tư Cấm Chỉ (nay là phố Tống Duy Tân, Hà Nội). Vì vậy ngày nay còn có câu thành ngữ “Nợ như chúa Chổm” và câu ca dao:
Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm mắc nợ tì tì
Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô

Trên thực tế, các cuốn chính sử đều không có dòng nào nói vua Lê Trang Tông là chúa Chổm cả, tuy nhiên “Đại Việt sử ký toàn thư” có viết : “Vua gặp vận gian truân, nhờ được bề tôi cũ tôn lập, bên ngoài kết bang nước láng giềng, bên trong dùng được tướng giỏi, cho nên người đều vui lòng làm việc, nền móng Trung Hưng gây ra từ đấy”. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng câu chuyện này chỉ là giai thoại dân gian xây dựng lên mà thôi. 
Nhưng sự hiện diện của đền Đức Hoàng thuộc xã Yên sơn, một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ độc đáo xứ Nghệ, nơi thờ phụng vua Lê Trang Tông cùng ông nội, ông ngoại và mẹ Bùi Thị Ngọc Thụy của nhà vua. Kết hợp giai thoại của truyền thuyết về quê hương Hoan Châu của vị quan cai ngục nhà Mạc, cùng nghi lễ tế rước tạ ơn từ đền thờ Nguyễn Cảnh Hoan xuống đền Đức Hoàng của dòng họ Nguyễn Cảnh trong ngày đại lễ cũng như ghi chép trong “Đại Việt sử ký toàn thư” đã góp phần giải mã đôi điều uẩn khúc trong câu thành ngữ “Nợ như chúa Chổm” và là một minh chứng cho một phần nào sự thật của truyền thuyết.